Đặt tên cá kiểu “mệ”
Có chuyện cá phát lát từ cung đình ra ngoài dân gian là bởi đây là giống cá quý trước đó chỉ có ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long với tên gọi thát lát, một danh xưng có nguồn gốc từ tiếng Khmer. Tương truyền vào thế kỷ 19, mẹ của vua Tự Đức là bà quý phi Phạm Thị Hằng (con gái của Thượng thư Bộ Lễ – Phạm Đăng Hưng), vợ vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông), được người đời biết đến với danh xưng Đức Từ Dũ, quê ở Tân Hoà, Gia Định (nay là vùng Gò Công, Tiền Giang), rất thích ăn cá thát lát. Thế nên, khi về làm dâu của hoàng tộc ở Huế, những người hầu cận thân thích của bà đã đem giống cá thát lát ở Nam Bộ ra nuôi ở một khu vực phía sau chợ An Cựu, đến nay vẫn còn di tích gọi là cống Phát Lát (hay còn gọi Phác Lác).
Con cá thát lát ra Huế nằm trong hành trình gắn với bà Hoàng Từ Dũ gồm nhiều loại đặc sản miền Nam, như mận (đào), xoài, măng cụt, cá lóc, cá phát lát, tôm chua… đã góp phần bổ sung và làm giàu thêm kho vật sản và món ngon đất Thần kinh. Như duyên trời sẵn định, từ phương Nam xa xôi, con cá thát lát lại hạp lạ, hạp lùng với vùng đất mới là chốn kinh thành. Cá phát lát chỉ sống trong các ao hồ lắng đọng nhiều phù sa. Trời cho Thừa Thiên Huế năm nào cũng bão lụt, dư dật phù sa, nên cá phát lát dễ sinh trưởng và béo múp. Lại nữa, sau mỗi trận lụt, nước ao hồ tràn ra sông, cá thát lát theo nước bạc (nước lụt) đi tìm các ao hồ khác để sinh sống, sinh đẻ. Cứ vậy, từ ban đầu loanh quanh ở vùng An Cựu, cá thát lát đã có mặt hầu khắp ao hồ ở vùng thấp trũng Thừa Thiên Huế.
Còn vì sao đổi tên cá thát lát thành phát lát, đó lại là câu chuyện khác. Có lẽ nó bắt đầu và gắn liền với địa danh của cống Phát Lát. Vào đầu thế kỷ 18, Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm đến cư trú ở làng An Cựu. Ông đã cho mộ dân khai hoang vùng ven sông, phát dọn nhiều cây cỏ hoang dại, đặc biệt trong đó các loại cây lùm, cây lát để mở rộng diện tích sản xuất nên vùng đất đó được gọi là Phát Lát. “Phát” với nghĩa là phát dọn và “lát” được hiểu cây lát. Từ vùng đất có tên Phát Lát kéo theo các danh xưng như cống Phát Lát. Rồi con cá thát lát từ Nam Bộ thả nuôi ở cống Phát Lát nên tiện thể đặt cho cái tên mới kiểu “mệ” là cá phát lát luôn cho gần gũi, dễ gọi và dễ nhớ. Ai ngờ, với cái tên gọi mới, con cá thát lát Nam Bộ xa xôi kia lại trở nên nổi tiếng hơn, bởi gắn liền với cuộc sống và ẩm thực cung đình…
(Theo Thừa Thiên Huế)
Similar Articles
Giai thoại kỳ bí về “cửu vị thần công” ở cố đô Huế: Người dân đi qua đều cúi đầu chào
Cố đô Huế nổi tiếng với những bảo vật cung đình, là minh chứng cho
Cách phân biệt Chùa, Đình, Đền, Miếu, Nghè, Điện, Phủ, Quán, Am
Không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng như
Lầu Minh Viễn trong thơ Minh Mạng
Nguyễn Huy Khuyến Lầu Minh Viễn là một công trình kiến trúc nổi tiếng trong