Văn hóa Huế | Homepage

Những con đường Huế xưa

🕔15.May 2016
Tôi thích những con đường nhỏ, cũ kỹ của Huế.
Những con đường lưu dấu từ thời Pháp thuộc mãi đến nay tưởng chừng vẫn chưa bao giờ được ngó ngàng đến. Nó bị bỏ phế, mặt đường lổ chổ, ổ gà, do tráng nhựa lâu ngày không được tu bỗ. Những con đường không có lề, vắng người qua lại. Những con đường cỏ dại mọc tự do, xen lẫn sõi đá mà hai bên đường là những hàng cây thầu đâu, phượng vĩ.
Đã nhiều lần tôi cùng bạn đi bộ, rảo bước, hít lấy sự yên tĩnh, nhẹ nhàng, lòng không vướng bận. Mắt nhìn hai bên, những ngôi nhà núp kín trong vườn cây xanh lá, những cây sầu đông, sắc hoa tim tím thoảng nhẹ hương thơm về đêm, …
Đâu rồi, trưa, chiều mùa hè, Tiếng ve kêu vang. Lòng rộn ràng khôn xiết, tôi đã nhiều lần cầm sào, trên đầu ngọn là mủ mít cùng người anh len lõi vô sâu trong các khu vườn, theo tiếng ve để đưa sào lên, rất nhẹ, không gây tiếng động. Khu vườn yên ắng, chỉ nghe tiếng thì thầm của gió, tiếng xào xạc của lá. Khi chiếc sào dí vào được cánh ve. Lòng tôi sung sướng biết bao nhiêu. Chú ve vùng vẫy, nhưng vô ích, đôi cánh đã dính mủ, không thể nào bay được ? Tôi mĩm cười sung sướng. Lòng hân hoan hạnh phúc, …
Những chiều có gió, Trời nổi sấm sét, chuẩn bị mưa giông, tôi chạy ù lên nhà bà Chánh. Ở đó là một vườn đào. Những cây đào to, già. Cây nào cũng đầy trái. Một cơn gió thổi, đào thi nhau rụng lộp bộp. Tôi tha hồ lượm. Khi những chiếc túi đã đầy. Khi đào đã được thả trong áo mà bụng dầy cộm lên như người có bầu, ấy cũng là lúc tôi mang về nhà, để đào đầy trên bàn. Nhìn thành quả lao động của mình. Vui lắm, nhưng ăn thì chả bao nhiêu.
Khi cơn mưa giông buổi chiều mùa hạ ào ào đổ xuống. Con đường như được tắm gội. Bao nhiêu ưu phiền, bao nhiêu mệt mõi như tan biến. Nước chảy mạnh trong những mương cống, trong ao rãnh, tôi, bạn, những trẻ con trong xóm, chúng ta đã cùng nhau vui đùa trong mưa. Bạn nhớ không? những con nhựa được bọc cùng với cây kẹo mà chúng ta mua để dồn chơi đồ hàng, chơi ô, chơi bắn cao su như con voi, con cá, tàu thủy, tàu bay, …đã được chúng ta thả dưới ao nước theo dòng chảy để đua xem con nhựa của đứa nào về nhanh nhất.
Đó là những con đường kỉ niệm, những con đường đã đi qua tuổi thơ tôi, những con đường mà tôi khó lòng quên được, kí ức vẫn gọi nhớ…
Tôi nhớ con đường Võ Tánh, Ôn Như Hầu, Gia Hội (Chi Lăng) về thẳng Bãi Dâu, … mà những sáng, những trưa, những chiều, tôi vẫn đi lại . Mắt tôi ghi đậm cảnh vật, sinh hoạt, của hai bên đường. Tôi nhớ từng hàng cây ngọn cỏ, nhớ từng bụi tre, nhớ cây đa góc đường, nhớ quán hớt tóc trong sân của ngôi chùa Tàu ở Chùa Bà mà mỗi lần ngồi hớt tóc là tôi nghe ông bình luận chuyện thời sự : Chuyện Mỹ đem quân sang tham chiến tại Việt Nam càng ngày càng nhiều, chuyện chính phủ Thiệu Kỳ đàn áp Sinh viên, học sinh, …Chuyện Việt Cộng thắng lớn các trận Bình Giả, Khe Sanh, …
Nhớ quán bán bún thịt nướng của bà vợ ông thợ hớt tóc, nơi tôi từ kiệt Cây Gòn bước ra mà thỉnh thoảng cha tôi vẫn đưa tôi đến ăn chiều. Nhớ khuôn hội An Lạc đầu tiên còn nằm trong khuôn viên của mấy anh em nhà Tôn Thất ở Phú Hậu, mà những đêm rằm hay ngày có lễ Phật, bọn tôi vẫn thường đến để nghe các Thầy thuyết pháp, kể chuyện « Mục Liên,Thanh Đề », chuyện « Cây dao trong tâm », …. Nhớ những cánh đồng trồng rau : rau muống, rau khoai, rau xa lách, … Nhớ những vườn hoa  mà người ta trồng hoa để bán của những gia đình ở đường Phú Hậu, Võ Tánh. Nhớ những chiều mùa hè về tắm Bãi Dâu, …
Ôi ! tôi nhớ, nhớ thằng bạn tên Võ Văn Đôn, cháu cụ Võ Tánh, nhớ con đường đất nhỏ theo lối mòn đến nhà anh Lê Văn Sâm, bạn học của anh tôi và anh đứa bạn. Con đường đi tới nhà anh Sâm, hai bên là những đám rau muống. Ở đó là vườn ổi Xa lỵ, anh Sâm đã cho chúng tôi tha hồ hái, ăn thoải mái. Khi trở về, còn cho mang theo. Vườn nhà anh Sâm nằm sát phía sau chùa Tăng Quang Tự, ngôi chùa áo vàng mà bây giờ mỗi lần nhắc lại người ta nghĩ ngay đến biến cố tết Mậu Thân, những người bị chôn sống hàng loạt tại đó. Tuy nhiên trong kí ức tôi vẫn là hình ảnh những nhà sư áo vàng, hai tay bê bình bát đặt phía trước bụng, chân để trần, dáng đi khoan thai.
Phía bên kia đường, sau hồ nước rộng là trường Trung học Gia Hội, đây nguyên trước kia là phủ của ông hoàng Mười, rộng rãi, trang nghiêm, được bộ Giáo dục mua lại và trùng tu, trở thành trường học. Mỗi lần trước khi vào nhà bạn, tôi vẫn ném tầm mắt nhìn qua, ở đó, học sinh nam nữ lô nhô trong sân trường, sâu hút sau hàng tre xanh. Tôi nhớ nhà văn Túy Hồng, bà dạy tại đó, được cấp cho một phòng, sát phòng bác cai trường để ở, và bà ăn cơm tháng tại nhà Võ Văn Đôn.
Trường trung học Gia Hội cũng là dấu tích mà người ta không bao giờ quên. Nơi diễn ra phiên tòa của lòng thù hận, sự trả thù nhỏ nhen mà những người chủ phiên tòa là những sinh viên, học sinh, giáo sư. Kết quả : chôn sống ! Những hố người khi phát hiện, đào lên, trong tư thế ngồi, khuôn mặt thảng thốt.
Ôi ! Huế của tôi ! Huế của những bi kịch ! Huế của những biến cố nghiệt ngã. Huế của những hồi ức buồn bã.
Vậy mà tôi vẫn nhớ Huế, thích được lâu lâu trở về Huế, thăm lại cảnh cũ, gặp mặt mấy thằng bạn ngày xưa, ngồi uống cốc cà phê, bên ly bia sủi bọt, nhắc lại kỷ niệm một thời. Tuổi học trò trong trắng, những mơ mộng ấp ủ về một người mình thương mà không bao giờ dám tỏ.
Xa rồi bạn ơi !
Nhưng mà vẫn gần biết mấy !
Huế ngày tôi bé tý trở thành Huế của thuở hồng hoang. Cái gì của Huế cũng đẹp cũng dễ thương. Đẹp từ con đường, dòng sông, cây đa đầu ngõ, bụi trúc đầu làng. Huế không lớn, Huế nhỏ và vì vậy con người Huế trở nên gần gũi. Huế như có sợi dây cột chặt người này với người kia. Cái gì, ở đâu ? xa mấy người Huế cũng đều biết… và người ta truyền tụng nhau những câu chuyện ly kỳ, thú vị đầy trí tưởng tượng.
Là dân Huế, có ai chẳng một lần nghe chuyện ma, được kể cho nghe chuyện ma. Bao giờ cũng thế,  khởi đầu trước khi vào chuyện, đây là chuyện có thật 100% ! Mùa đông Huế ngày ngắn, đêm dài. Trời lạnh như cắt, tưởng chừng nước có thể đông đá. Về đêm, gia đình tôi quây quần bên bếp rèn còn rực than hồng. Và rồi cha tôi kể chuyện ma. Càng về khuya, câu chuyện của cha tôi kể càng rùng rợn. Tôi sợ hải, không dám đi tiểu, nín tè. Tôi hình dung con ma le mà cha tôi kể : cái lưởi nó phải dài lắm, bởi vì ban đêm, chặng đường đi qua cống Phác Lác, người ta không dám lai vảng. Họ đồn có con ma le. Thế nhưng bửa nọ, người đàn ông trong vùng, không tin là có ma. Ông ta muốn đi kiểm chứng thực tế.  Trời mưa dầm, lạnh cóng, Người đàn ông cầm đuốc và đi. Khi đến cống, quả y như thế. Một người đàn bà mặc áo quần trắng toát, chận đường ông ta và xin lửa mồi thuốc. Mồi xong, người đàn bà hỏi :
- Ông đã khi mô thấy ma le chưa rứa?
Người đàn ông trả lời :
- Ma le? làm chi có.
Người đàn ông vừa dứt lời, người đàn bà le cái lưởi dài, đỏ ngầu. Nhanh như chớp, người đàn ông đưa tay chặt mạnh vào cái lưởi đỏ ngầu. Con ma le biến mất.
Thế nhưng, cha tôi kể tiếp, ít lâu sau, người đàn ông bệnh mà chết.
Tôi hỏi cha tôi :
- Rứa chú có tin đó là chuyện thật không?
- Làm chi có chuyện như rứa !
- Rứa răng chú kể ?
- Vì nó hấp dẫn, kể cho con nín đái luôn.
Cha tôi cười chọc quê.
Mặc dù nói vậy, nhưng ông vẫn kể chuyện ma, những câu chuyện của ông bao giờ cũng hấp dẫn, có địa chỉ hẳn hoi. Buồn cười nhất là chuyện ma rà mà lại chịu không nổi sự lạnh, về khuya thường tập trung vào bếp rèn của ông bác tôi tại bến đò ở làng Minh Hương. Một bửa nọ, bác tôi dùng loại « cức sắt » còn đỏ hồng, lùi dưới tro. Khuya ấy, ma rà vào ngồi trong bếp rèn, bất ngờ trúng sắt nung đỏ, hui cháy mông ma rà khét rẹt, nghe tiếng xèo xèo, mấy con ma nhảy xuống sông nghe bỏm, bỏm.
Cả nhà cười ngất nghe cha tôi kể chuyện, những câu chuyện của ông lôi cuốn sự tò mò của bọn chúng tôi, có khi quá khuya mà vẫn chưa ngủ.
Trời quá lạnh, cha tôi cho làm lò than vùi tro, đặt dưới giường cho bà nội ngủ. Ban ngày tôi nhớ, bà nội có cái lồng ấp nhỏ, đan bằng tre, phía trong là cái trách bằng đất sét để than hồng trong đó, mặt trên khỏa tro. Bà nội mặc chiếc áo dài. Vạt áo che kín hai tay bà nội bê lồng ấp để trước bụng.
Trở lại câu chuyện về ma, tôi chưa bao giờ thấy ma và khi tôi hỏi mọi người, có ai thấy ma chưa? Câu trả lời bao giờ cũng là chưa. Và theo tôi, ma là do tâm ta kiến tạo nên. Như người đi đêm, nếu tâm không vững, lo sợ suy nghĩ lung tung, sẽ cảm thấy như có người đang đuổi theo ta đằng sau. Nếu ta càng bước nhanh, ta lại thấy bước chân đuổi theo ta  càng nhanh hơn. Phải vậy không bạn?
Không thấy ma, nhưng đi xem ma, chứng kiến hiện trường nơi người ta quả quyết ma hiện về thì tôi đã trực diện. Tôi nhớ ở Đò Cồn, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, chặng cuối, gần ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm – Võ Tánh, có ngôi biệt thự cũ, nằm sâu hút bên trong, phía trước là khu vườn rộng bát ngát. Vườn được bao quanh bởi hàng tre dày. Trước sân là ngôi mộ, chung quanh mộ là cỏ xanh rờn. Ngôi mộ đó là con gái của chủ nhà, qua đời đã lâu. Chủ nhà chắc hẳn kế thừa bất động sản của cha để lại. Dạo ấy, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm đông nghẹt người, họ đến xem ma. Mọi người bàn tán, ban đêm, người bán hột vịt lộn nghe có tiếng kêu mua hột vịt. Người bán dừng lại, thấy có cô gái đứng chờ. Cô gái nói bán cho cô 2 cái hột vịt lộn. Sau khi trả tiền xong, người bán thối tiền thừa xong lại đi. Điều lạ lùng là người bán phát hiện tiền mà mình nhận được toàn là giấy. Ngày hôm sau quay trở lại để tìm người mua, thì thấy trên ngôi mộ trong sân, hai cái hột vịt lộn nằm đó cùng với tiền thối của người bán. Câu chuyện được truyền đi rất nhanh và tôi cũng  hòa trong làn sóng người đó để đến xem. Nhưng thời điểm ấy, thú thật, tôi cố gắng lắm cũng không chen chân vào được. mãi mấy hôm sau, tôi và Võ Văn Đôn đi bách bộ đến. Ngôi vườn trước mặt chúng tôi và ngôi mộ nằm đó. Trên đó, tôi thấy một cái dĩa để trái cây và cây hương đang cháy.
Ngày nay, ngôi biệt thự cũ vẫn còn, sân cỏ rộng thênh vẫn còn và ngôi mộ của người con gái năm xưa vẫn còn đây. Nhưng tôi biết chắc chắn rằng trong số đông người lũ lượt đi xem ma năm xưa bây giờ đã rất nhiều người nằm xuống.
- Họ có gặp được cô gái kêu mua hột vịt lộn năm nào ?
Nơi tôi ở đang chuyển mùa, bây giờ là tháng của tựu trường. Mùa thu trở về. Buổi chiều thường có mưa, những trận mưa xối xả kèm theo sấm sét rồi kết thúc nhanh. Cơn nóng những ngày hè tan biến. Trời mát dần.
Nhà văn Anatole France đã hồi ức về hình ảnh cậu bé đi đến trường. “Cặp sách trên vai, con vụ trong túi, cậu đi ngang qua công viên Luxembour trong những ngày đầu tháng mười. Bầu trời lúc ấy buồn hơn bao giờ hết. Lá vàng rơi trên vai những pho tượng. Cậu vừa đi vừa nhảy nhót như một con chim sẻ. Ý tưởng gặp lại bạn bè làm cho lòng cậu vui vui…”
Cậu bé ấy là tác giả, là tôi, là bạn, là những người đã đi qua những tháng ngày đẹp dưới mái trường cùng bạn bè, thầy, cô…
Những con đường của Huế, ở đó, mỗi ngày đi học làm sao tôi quên được.
Tôi nhớ ngôi trường đầu tiên ấy, là ngôi nhà vườn của một gia đình quan lại mà cha tôi vẫn gọi là Cụ Chưởng. Tôi học với người con gái đầu của cụ, cô Bích, Tôi nhớ lớp học của cô. Phòng rộng, tường xây vách, lợp tôn, có đóng trần và một sân vườn rộng, dài, thoáng mát. Chung quanh là những cây xanh vươn cao, tỏa bóng mát dịu với những cây mít, cây dừa, cây khế, cây bưởi, những bụi chuối, …
Lớp học của cô Bích nhiều trình độ. Có bạn lớp ba, có bạn lớp tư, có bạn lại còn quá bé, học lớp vở lòng. Tôi và một số bạn học lớp nhì. Lớp đông người nhưng cô vẫn đảm đương được. Cô phân loại trình độ rồi chia thành nhóm, ngồi theo từng cụm để dễ kiểm soát. Dù thế nào, cô cũng vất vã vì phải theo dõi từng bạn, ra bài, chấm bài, viết bài cho các bạn học, …
Kỉ niệm ngày tháng học với cô Bích đến với tôi như những giọt nước ngọt, mát lịm trong hồn. Ở đó là con đường Kiệt Cây Gòn tôi đi hàng ngày và những bụi già tàu chạy dài, ngôi vườn màu xanh với những ô cửa sổ. Một điều lạ lùng, ngày ấy, tôi bé tý, vậy mà sao vẫn thích nhìn cô bé Tùng xinh xinh đi cùng, chiếc cổ cao, đôi mắt to ngơ ngác, chiếc áo trắng giản dị, cái quần đen mộc mạc.
Tùng được cô Bích chọn làm lớp trưởng. Khi tôi lách mình từ đường Chi Lăng để rẽ qua Kiệt, gặp được Tùng cùng đi, tôi vui biết bao. Tùng nói huyên thuyên, kể đủ thứ chuyện và tôi chỉ nghe. Thỉnh thoảng, gặp chỗ thú vị, cả hai cười khúc khích. Nhưng thích nhất, vẫn là một đôi khi, cô bé rút từ trong cặp, hột ô mai và đưa cho tôi. Tôi cảm nhận hơi ấm từ bàn tay cô bé với một cảm giác lâng lâng, nhẹ nhàng …
Từ nhà tôi đến lớp học của là một quãng ngắn. Tôi dọc theo đường Chi Lăng (Gia Hội) gặp kiệt Cây Gòn, rẽ vào, đi chừng 100 mét là đến. Trên đoạn đường ấy, tôi chừng như quen thuộc từng ngôi nhà, cái quán, khuôn mặt từng người một. Tôi thích nhìn qua sân nhà ông Đại úy Biên để  ngắm mấy chậu cây nở đầy hoa mà đại úy Biên cất công chăm bón, nào hoa mồng gà, hoa thược dược, hoa do (hoa nho) và dàn Ti Gôn hai màu trắng, đỏ,  Một đôi khi, anh Châu, con ông đại úy, nhìn tôi nở nụ cười, ngoắc tôi vào, cho tôi mấy cây kẹo que. Tôi thích lắm. Lại nữa, nhà chú Hượt bên kia đường, có ông ba Tàu thuê bán phở. Mỗi sáng, mùi nước phở xông ngào ngạt làm tôi thèm ăn, nhưng khó lòng thỏa mãn. Và rồi nhà bác Uyển, nhà bác Siêu làm từ thiện. Nhà bác Siêu có hai người con gái, Cẩm Vân, Cẩm Du thảy đều xinh đẹp, đoan trang. Hai chị vẫn thường qua chơi nhà cùng chị tôi nói chuyện huyên thuyên. Hai bà chị có người em trai út lại bị bệnh trì độn, không phát âm được tiếng nói, chỉ nghe ồm oàng. Đó là Lộc bị thần kinh, đi đứng không ổn định, thường trần truồng, tay cầm chim tồng ngồng, nhiều phụ nữ đi ngang trông thấy sợ quá la ré, bỏ chạy. Sau này bác Siêu phải trói ở cửa. Vợ bác Siêu đi bán trên chợ Đông Ba tối mới về. Còn bác Siêu thì đi làm việc thiện, quyên gạo đem phát cho người nghèo nên vắng nhà thường xuyên.
Bác Siêu như một vị Bồ Tát sống, thế mà ở với bà vợ không bao giờ yên thân, thỉnh thoảng, cả xóm vẫn được dịp nghe giọng the thé nhiếc mắng của bà vợ bác Siêu. Nhưng rồi một chốc lại im ắng ngay vì bác Siêu gái nhận ra chỉ mình bác độc thoại nên chán và thôi.
Tôi vẫn thầm nghĩ hai chị em gái Cẩm Vân, Cẩm Du chắc là buồn lắm vì cảnh nhà như thế.
Rồi đến nhà bác Dẫn với vườn cây lá xanh, sát Chợ Dinh ; nhà bác Sáu ở góc kiệt ;  nhà cậu Cơ, kế nhà bác Sáu ; …
Một hôm, là buổi sáng, Trời mưa nhẹ, mát dịu, tôi đi học, lúc rẽ qua kiệt, tôi bắt chợt bên hông nhà bác Sáu. Cửa sổ mở, một chiếc lưng trần. Tôi đứng sững nhìn, da thịt màu trắng hồng, láng như có bôi mỡ. Từ vai đến bụng, như toát ra hơi ấm. Mắt tôi dừng lại ở bờ eo, rất thon, nhỏ. Quá đẹp. Một sự thích thú dâng trào. Thì ra chị Madeleine đang trần truồng đứng soi gương để chiêm ngưỡng dung nhan của mình ! chị Madeleine, vợ của anh Tòng, con trai của bác Sáu. Chị làm việc trên nhà đèn. Anh Tòng làm thư ký cho trường Đại học Sư phạm. Tôi nghe anh tôi nói như thế. Chị Madeleine là con lai, khuôn mặt tây đến 90%. Tôi vẫn thường bắt gặp chi nhai củ cà rốt ngon lành.
Tôi đem chuyện tôi thấy chị Madeleine ở truồng soi gương kể lại với cô bé Tùng một cách tự nhiên. Tùng cười khúc khích. Cô bé nói : Sướng quá rồi! Mấy ai được như rứa! Tôi cười hỏi lại :
- Răng lại sướng?
Tùng nguýt tôi một cái:
- Chỉ giả bộ!
Một chốc sau, Tùng chợt hỏi:
- Ê ! mà ấy có thấy phía trước không?
Tôi ngạc nhiên:
- Nghĩa là răng, tui không hiểu?
- Là có thấy chỗ ni không nì.
Vừa nói Tùng vừa đưa tay chỉ ở chỗ đó. Tôi phì cười:
- Không, tại lúc đó tui ham nhìn sau lưng, mô có nhìn chi vô gương!
Điều con bé Tùng nói làm tôi tự hỏi : sao lúc ấy mình không nhìn vô gương thử. Nhưng mà người ấy đứng soi gương thì đã che luôn gương soi làm sao mình thấy được.
Tuổi lên 10, có những ý tưởng tò mò, thích thú được nhìn người khác giới. Tôi hồn nhiên, thoải mái khi nói về đề tài cấm kỵ. Ở con bé Tùng, có một chút gì người lớn. Thỉnh thoảng, những sắc hồng phớt nhẹ trên hai má rồi chợt biến, để lại màu trắng mịn trên khuôn mặt thánh thiện. Nhìn Tùng, tôi nghĩ đến những cánh hoa hồng nở hàm tiếu trước sân nhà.
Lớp học cô Bích rồi cũng qua. Năm học mới lại bắt đầu. Tôi phải từ giã lớp học đầu tiên, từ giã những kỉ niệm ngọt ngào với những người bạn ngây ngô chất phác. Tôi được cha tôi gửi tôi vào học trường tiểu học bồ Đề Thành Nội Huế.
Dần dần tôi quên cô bé Tùng, quên chiếc cổ cao, đôi mắt mở to ngây thơ vô tội, quên những lần Tùng khám vệ sinh, khám vở và báo cáo lại cô Bích. Quên nụ cười tinh nghịch của Tùng khi giả vờ đưa thước lên dọa khẻ bàn tay tôi và bảo là tay tôi dơ, …
Tôi lại bắt đầu một năm học mới khác, một nơi chốn khác…
Nguyễn Lương Tuấn
(Theo blog cựu học sinh Nguyễn Du Huế)

 

Similar Articles

Chuyện cây thuốc lá Phong Lai

Chuyện cây thuốc lá Phong Lai

Mỗi lần về quê, đi ngang vùng cát Quảng Thái, thấy mấy vườn cây thuốc

Ủ Tết (Thì thầm lá hoa)

Vườn bà tôi ngày trước đầy hoa trái, bốn mùa xanh rợp lá cây, hầu

Nhớ những chuyến xe lam

Nhớ những chuyến xe lam

Hôm qua chú em họ đăng Facebook về những chiếc xe lam - một thời

Trong bóng dáng mệ quê

Trong bóng dáng mệ quê

Những ngày này Huế mưa, nhớ mạ thiệt nhiều, mà đi chợ càng nhớ hơn,

Lụt Huế

Lụt Huế

Khái niệm bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với ông trời xứ Huế cho đến

Danh mục

Tìm kiếm:



Có thể bạn quan tâmclose