Kim Long có gái mỹ miều
Đất Huế một thời đế đô, giai nhân dập dìu tụ hội đã đành. Mãi tận sau này, lớp lớp người đẹp vẫn cứ xuất hiện nối tiếp với biết bao câu chuyện thú vị, cuốn hút lạ lùng.
“Kim Long có con sông Hương thơ mộng chảy qua, đất đai tươi tốt, thiên nhiên trong lành, cây trái thơm ngon tươi tốt bốn mùa. “Miền gái đẹp” Kim Long hội tụ được rất nhiều điều như vậy” -Nhà nghiên cứu Phạm Đức Thành Dũng.
Từ đường Vĩnh Quốc Công thờ dòng tộc Nguyễn Hữu với chiếc cổng tam quan có tỉ lệ “vàng” đẹp bậc nhất Huế nằm trên đường Nguyễn Phúc Nguyên hướng ra sông Hương đang lưu một phần câu chuyện về “gái mỹ miều” Kim Long.
Đệ nhất giai phi
Khu từ đường trước có bình phong cổ và hồ nước trồng súng tuyệt đẹp, nằm giữa khu vườn rộng, phủ bóng cây cối. Lối vào là hàng mai vàng, phía bên là hàng cau cao vút, thẳng tắp, vườn rợp bóng thanh trà và măng cụt cổ thụ cùng nhiều cỏ hoa, non bộ, mặt nước…
Hôm tôi ghé rất thích thú với mùi hương hoa bưởi thanh trà thơm ngát và đầy ắp tiếng chim.
Thủ từ là ông Nguyễn Hữu Hồng Quân giới thiệu bảng gia phả in lớn treo ở bức tường bên, thể hiện đại thần Nguyễn Hữu Độ thuộc đời thứ 25, còn ông Quân thuộc đời 30.
Giữa gian thờ chính là ngai đặt long vị, hai bên là ảnh quan phụ chính Nguyễn Hữu Độ, phía trước là hàng bài vị bằng gỗ tuyệt đẹp xếp theo thứ bậc.
Hai gian bên cũng đặt hệ thống thờ tự bài bản theo thế thứ rất ngăn nắp. Ông Quân lần giở cuốn gia phả đặt trong lồng kính phía trước, thể hiện rất cụ thể trong đó là những “giai nhân” chốn hoàng cung một thời.
Quan phụ chính Nguyễn Hữu Độ có đến ba người con gái “làm dâu” hoàng gia. Con gái đầu Nguyễn Hữu Thị Nhàn là đức Thánh cung, vợ của vua Đồng Khánh (Khôn Nguyên thái hoàng thái hậu).
Con gái thứ hai Nguyễn Hữu Thị Nga là bà Huyền phi, vợ vua Thành Thái. Và con gái thứ tư Nguyễn Hữu Thị Uyển, được gả cho ông Ưng Quyến, em trai vua Kiến Phúc và Đồng Khánh. Dừng lại ở trang 158, phần bà Thị Nga, ông Quân giới thiệu: “Đây chính là Huyền phi của vua Thành Thái.
Có giai thoại rằng khi vua Thành Thái vi hành lên miền đất Kim Long thì gặp bà Nguyễn Hữu Thị Nga này, đưa về cung, đến nay còn câu lưu truyền rằng: Kim Long có gái mỹ miều/Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi”.
Trang gia phả cũng ghi rõ rành: bà Thị Nga (1881 – 1945) được nhập cung làm Huyền phi vua Thành Thái lúc 15 tuổi, sinh một trai, một gái…
Gia phả dẫn câu thơ trên, kèm theo trích nguồn từ sách của tác giả Phi Long, rằng: “… là của vua Thành Thái làm ra khi đi chơi ở Kim Long và mê một thiếu nữ ở đây nên thường hay lui tới nhà cô này.
Cô gái đó chẳng ai khác ngoài cô Nga, con quan đại thần Nguyễn Hữu Độ. Câu thơ trên chính là câu hát của vua đối với cô gái mỹ miều đó”.
Theo sách Đại Nam thực lục, tháng 5 năm Thành Thái thứ 9 (1897): “Vua sách phong cho con gái Vĩnh Lại quận công (tức Vĩnh Quốc công từ thời Khải Định) mới tuyển là Nguyễn Thị (Nguyễn Hữu Thị Nga – PV) là Huyền phi nhất giai” (cao nhất trong cửu giai – PV). Chuyến Nam tuần cuối năm ấy, vua đưa người đẹp Huyền phi theo cùng…
Hôn thú “oan gia”
Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Sơn cho rằng việc Thành Thái lấy người đẹp Thị Nga được xem là “mối tình oan gia”: “Vua Thành Thái thiệt ngược đời, chọn ai không chọn lại đi chọn con gái ông Nguyễn Hữu Độ, là người dẫn tới cái chết của ông ngoại mình, tức quan phụ chính đại thần Phan Đình Bình”.
Lần lại chuyện xưa, Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình đều là đại thần được điều từ miền Bắc vào Huế để tái lập trật tự sau biến cố kinh đô thất thủ. Thời Đồng Khánh, đại thần Nguyễn Hữu Độ đã đưa con gái Thị Nhàn vào cung làm hoàng quý phi, là bà Thánh cung sau này.
Vốn không thích nhau, Nguyễn Hữu Độ đã “méc” với vua Đồng Khánh một sự việc đã cũ. Rằng, khi phía Pháp hỏi ý kiến đưa người lên làm vua, chính ông đã đề nghị Đồng Khánh. Còn ông Phan Đình Bình thì đề nghị người con của vua Dục Đức, vốn là cháu ngoại của mình là Nguyễn Phúc Bửu Lân (Thành Thái sau này).
Sách Đại Nam thực lục ghi: sau lần Nguyễn Hữu Độ mật tâu: “Vua lấy làm giận, bèn giải chức Đình Bình, giao cho tôn nhân, đình thần xét rõ”.
Khi đình thần đề nghị phương án cách chức ông Phan Đình Bình và cho an trí ở Huế, “Vua không cho, lại sai mật hỏi tội lỗi khoản khác của Đình Bình, giao cho Bộ hình và Viện Đô sát hội đồng xét xử, sau bản án xét định dâng lên”.
Trong những tội bị khép có việc Phan Đình Bình lấy đồ vật của vua dùng đưa về nhà. Số là giai đoạn thất thủ kinh đô, những tài sản trong cung thất tán. Trong số đó, chiếc rương gỗ và cái cối đá ở nhà Phan Đình Bình được xác định lấy từ “tiềm để” – nơi ở của Đồng Khánh khi chưa làm vua.
Tội được xác định: “Duy khoản lấy trộm đồ vật của vua, tang chứng rõ rệt, khép vào tội bất kính, cũng là 1 trong 10 điều ác, vậy Phan Đình Bình và vợ là Nguyễn Thị Đào có nên xử chiểu luật ăn trộm tài vật ở Phủ Nội vụ, đều phải tội chém, nhưng giam đợi lệnh”.
Vụ án được giao cho Nguyễn Hữu Độ xét lại, ông trả lời: “Việc Đình Bình can phạm là việc trọng đại, trị bằng tội phải chịu, thực không phải là oan uổng, kính thảy nhà vua xử đoán, pháp lệnh nghiêm minh, may cho tôn xã và may cho thần dân lắm”.
Phan Đình Bình sau đó “uất ức mà chết” ở trong nhà giam. Về sau, đến thời Thành Thái, nhà vua đã truy phục tước hàm, truy tặng tước công cho ông ngoại mình và bốn đời ông bà, ban ruộng thờ và cho xây lại từ đường…
Nổi tiếng gái đẹp
Tháng 9-1907, khi vua Thành Thái bị ép thoái vị, bị lưu đày ở Vũng Tàu, sau đó đến đảo Réunion, người đẹp Huyền phi ở nhà đã viết thơ bộc bạch nỗi lòng: “Từ bé con con mãi đến chừ/ Bỗng chừ mới biết cái tương tư/ Ngàn cân biệt hận đà xơ xác/ Buộc dải đồng tâm đã chắc khư/ Muôn hộc tình đong, đong hãy thiếu/ Một thành sầu chất, chất càng dư/ Mảnh trăng thề với người tri kỷ/ Dẫu nát trăm thân chẳng há từ”.
Lời thơ đó vô cùng đẹp, thể hiện cả tâm tình, nỗi khắc khoải nhớ nhung về một người chồng bị lưu đày. “Có lẽ chỉ có người phụ nữ Kim Long mới có thể thốt lên những lời chân tình, vừa trí tuệ và nghĩa tình như vậy; đó cũng là nét độc đáo của người phụ nữ ở đây” – nhà nghiên cứu Phạm Đức Thành Dũng nhận xét.
Trở lại vùng đất Kim Long, dải đất ven sông Hương sát bên kinh thành Huế này cũng rất nổi tiếng với biết bao người đẹp qua các thời kỳ. Kim Long – thủ phủ Đàng Trong thời các chúa và kinh thành Phú Xuân thời Nguyễn liền một dải ven sông Hương, nên truyền thống văn hóa được hun đúc từ sớm.
Vùng đất ven sông Hương đất đai phì nhiêu, hoa trái tươi tốt được nhiều thành viên hoàng gia và gia đình trâm anh thế phiệt chọn làm nơi ở, đến nay còn nhiều phủ đệ.
Theo ông Thành Dũng: “Con gái Kim Long nổi tiếng đẹp từ xưa đến nay. Dường như điều đó là tất yếu, trong truyền thống văn hóa được hun đúc, kế thừa, trong một môi trường giáo dục về đạo đức, lễ nghi, công, dung, ngôn, hạnh xuyên suốt mấy trăm năm”.
****
Khi vua Thành Thái bị ép thoái vị và lưu đày xứ xa, người đẹp Huyền phi ở nhà đã ‘vượt rào’ tái giá. Người chồng sau của người đẹp cũng là vị quan đại thần danh tiếng…
Câu chuyện “vợ vua tái giá” gần như được giữ kín trong nội thân các dòng tộc có liên quan cho đến tận ngày nay.
“Có lạ chi mô chuyện nớ hè”…
Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Sơn kể tôi nghe thông tin hết sức lạ lùng: khi vua Thành Thái bị lưu đày tận châu Phi, bà Huyền phi ở Huế đã cải giá, làm vợ thứ của ông Thân Trọng Huề (1869-1925), một trọng thần triều Nguyễn.
Ông Sơn là chắt nội của Thượng thư Bộ hình Trần Đình Bá, từng nghe chuyện và gặp gỡ rất nhiều chứng nhân, đặc biệt các câu chuyện “thâm cung bí sử” của hoàng gia và các gia đình danh gia vọng tộc.
Ông Sơn cho biết trước khi vua Thành Thái rước người đẹp về cung, ông Thân Trọng Huề vừa học từ Pháp về được bổ làm quan đã chú ý đến tiểu thư đài các Nguyễn Hữu Thị Nga.
“Khi vua Thành Thái bị đày, đến thời Khải Định, Thân Trọng Huề làm thượng thư Bộ binh, đã thường tới lui với bà Huyền phi. Cuối cùng ông viết thư gửi sang ông Thành Thái xin cưới bà. Ông Thành Thái cũng viết thư về cho phép, và bà sống với ông Thân Trọng Huề một thời gian cho đến khi ông Huề qua đời” – ông Sơn cho biết.
Ông Sơn nghe nhiều người thuộc hoàng gia và gia đình danh gia vọng tộc ở Huế kể lại, mà người kể kỹ lưỡng nhất chính là bà Nguyễn Hữu Bích Tiên (cháu ngoại của vua Dục Đức, cháu nội của đại thần Nguyễn Hữu Độ, gọi Huyền phi là cô ruột).
Chồng bà Bích Tiên là Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn, từng theo hầu vua Bảo Đại giai đoạn sang học ở Pháp (bà nội ông Cẩn là chị gái bà Huyền phi).
“Bà Bích Tiên kể rằng thời Khải Định, khi người cô ruột Thị Nga vào cung thăm chị gái là hoàng thái hậu Thánh cung, nhà vua vời gặp, vừa cười quở chuyện Huyền phi tái giá rằng: “Chuyện chi mà lạ đời rứa”.
Bà Nga mới ứng khẩu bằng một bài thơ tứ tuyệt, trong đó có hai câu: “Có lạ chi mô chuyện nớ hè/Chữ tình là rứa có chi ghê…”.
Tất nhiên theo lệ, vợ của vua như “của để thờ” không ai được lấy, nếu quan nào lấy thì bị bãi chức ngay. Nhưng ông Thân Trọng Huề vừa là trọng thần, lấy cô ruột của vua Khải Định, có quan hệ thân tộc nên vẫn tại chức bình thường” – ông Sơn cho hay.
Nhân chứng đương thời
Chuyện Huyền phi nhất giai tái giá không thấy ghi trong chính sử. Nhiều nhà nghiên cứu Huế khi tôi hỏi cũng đều bất ngờ. Ngay cả nhiều thành viên Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc khi được hỏi đều lắc đầu. Ông Nguyễn Hữu Hồng Quân, thủ từ phủ thờ Vĩnh Quốc Công, cũng nói không biết chuyện xưa…
Tại phủ thờ cụ Thân Văn Nhiếp ở làng Nguyệt Biều của Huế, thủ từ Thân Trọng Dũng lần giở cuốn gia phả họ Thân cho tôi xem. Phần ông Thân Trọng Huề (con thứ ba của cụ Thân Văn Nhiếp) ghi: sinh năm 1869, mất tại Bộ học ngày 17-7-1925, khi còn tại chức Thượng thư Bộ học kiêm Bộ binh.
Gia phả chỉ ghi “Bà vợ ông là con gái ngài Kiên Thái Vương, tên Như Sắc, ấy là em gái vua Kiến Phước, vua Hàm Nghi và vua Đồng Khánh vậy. Bà mất trước ông, mả chôn ở thành Hà Nội”. Họ có bốn người con, hai trai, hai gái. Và, vợ thứ Thị Nga… biệt tăm.
Tôi tìm cách liên hệ ông Thân Trọng Hoàng, gọi đại thần Thân Trọng Huề là cố nội đang sống ở TP.HCM.
Ông Hoàng nói ngay: “Tui có nghe chuyện khi bà cố tui mất thì ông cụ lấy bà Huyền. Bà Huyền nghĩa là bà phi của vua trong cung. Tui chỉ nghe bà nội kể lại như vậy thôi, chứ cũng chưa đọc tài liệu chi có ghi hết. Bà nội tui là dâu, chỉ biết chừng đó thôi. Những người con ruột cụ Huề có thể biết nhưng đã mất hết”.
Thật may, sự việc đã được nữ sĩ Cao Ngọc Anh (1878-1970) “xác nhận” trong tập thơ Khuê sầu thi thảo in ở Sài Gòn năm 1961, ở bài thơ Vịnh vườn hoa của bà Huyền phi (khi đã lấy ông Thân Trọng Huề).
Cùng sự khéo léo nhắc chuyện tái giá, thi nhân còn có lời chúc con cháu đầy nhà: “Chị em thong thả dạo thành xuân/ Vừa tới danh viên thấy chủ nhân/ Non nước nhớ quên người cố cựu/ Cỏ hoa đưa đón khách thanh tân/ Tài bồi thợ tạo thêm hoa nhị/ Đề phẩm làng thơ bút nẩy thần/ Chắc hẳn sang năm vào chuyến nữa/ Lan kia đầy chậu quế đầy sân”.
Nữ sĩ Cao Ngọc Anh (1878-1970) con nhà gia thế, là ái nữ quan đại thần Cao Xuân Dục, làm dâu quan đại thần Nguyễn Trọng Hợp. Bà rất giỏi Hán học, tài danh thơ phú, khi vào miền Nam tham gia (có thông tin nói bà “chủ soái”) nhóm Quỳnh Dao quy tụ các nữ văn nhân…
Bà Cao Ngọc Anh lớn hơn Huyền phi ba tuổi, tức cùng thời; đọc qua bài thơ chứng tỏ bà đến thăm người bạn, lại là bạn thơ, tri âm tri kỷ. Tác giả cho in tập thơ lúc sinh thời nên nội dung có thể tin tưởng chính xác.
Cải táng về nằm cạnh con trai
Trở lại phủ thờ Vĩnh Quốc Công ở Kim Long, gia phả họ Nguyễn Hữu ghi rõ: bà Nguyễn Hữu Thị Nga sinh năm 1881, tấn nhập đại nội làm Huyền phi năm 1896; sinh hạ một trai, một gái là hoàng tử Vĩnh Giác và công nữ Lương Khanh.
Khi qua đời ngày 19-12-1945, người đẹp Huyền phi được “táng tại An Lăng gần lăng vua Thành Thái”. Bia khắc: “Hoàng triều Thành Thái Huyền phi Nguyễn Hữu Thị Nga”.
Gia phả cũng ghi thêm: “Năm 2006, cháu nội là Công Tôn Nữ Liên Châu cải táng về chôn tại nghĩa trang Long Hương, tỉnh Bình Thuận”. Một vị nhất giai phi, nằm gần đấng quân vương mà phải cải táng đi nơi khác nghe ra quá đỗi bất thường đã thôi thúc tôi đi tìm hiểu ngọn nguồn.
Sau khi Huyền phi mất gần chín năm, tháng 3-1954, cựu hoàng Thành Thái mới qua đời ở Sài Gòn, được đưa về Huế táng tại An Lăng – khu lăng mộ vua Dục Đức và con cháu thuộc phường An Cựu, TP Huế. Đến ngày 23-8-2006, bà Liên Châu gửi đơn đến UBND phường An Cựu xin cải táng bà nội và được đồng ý.
Hai ngày sau, bà cùng hai người khác là Nguyễn Phước Bảo Điền và Nguyễn Phước Quý Phong đã đưa di cốt lên tàu vào Bình Thuận; ngày 27-8-2006 thì cải táng tại nghĩa trang xã Phước Thể, Tuy Phong, Bình Thuận.
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, nhiều khả năng khi hoàng phi tái giá tuổi đã cao, khoảng ngoài 40, chỉ chung sống ít năm thì người chồng mới qua đời, không sinh con. Sự việc trên “không mấy hay ho” theo quan niệm người xưa nên người ta không đưa bà Thị Nga vào gia phả họ Thân.
Riêng việc cải táng, ông Vĩnh Quả thuộc dòng họ Nguyễn Phước, đồng tác giả sách Nguyễn Phúc Tộc thế phả, dẫn lời ông Bảo Nguyện (con trai trưởng hoàng tử Vĩnh Giác, tức cháu nội bà Huyền phi) cho biết: mộ bà Huyền phi chỉ nằm vùng rìa chứ không nằm trong khu vực An Lăng, cạnh lăng vua Thành Thái (như gia phả họ Nguyễn Hữu ghi – PV).
Vì hoàng tử Vĩnh Giác nằm lại tại Bình Thuận, cho nên gia đình mới đưa bà về nằm cạnh mộ con trai.
Chuyện tình vượt Tử Cấm thành
“Cả vua Thành Thái lẫn bà Huyền phi đều có chuyện tình vượt Tử Cấm thành. Trước tiên, vua Thành Thái đã vượt qua được mối thù của mẹ mình là hoàng thái hậu Từ Minh với người đã giết cha của bà.
Khi vua đưa con gái ông Nguyễn Hữu Độ về cung phong nhất giai phi, chắc là người mẹ đau khổ trong nhiều năm trời. Còn bà Huyền phi về sau vì mối tình với ông Thân Trọng Huề mà vượt qua những phép tắc trong cung để về sống với nhau.
Đó đều là chuyện tình đặc biệt dưới thời Nguyễn, mà tôi nghĩ rằng nếu có đạo diễn tài ba sẽ tạo được bộ phim rất hấp dẫn” – nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đình Sơn.
Thái Lộc
(Theo Tuổi trẻ)
Similar Articles
Chạp mả họ – nét đẹp văn hóa họ tộc của người Việt ở Thừa Thiên Huế
NGUYỄN HỮU PHÚC Chạp mả ở làng. Ảnh: Hữu Phúc 1. Dẫn nhập Hiện nay, trên địa bàn
Xứ sở hạnh phúc
Sau hành trình dài phấn đấu, cuối cùng Thừa Thiên Huế đã cán đích khi
Gia đình truyền thống Huế trong xã hội hiện đại
Suốt quá trình lịch sử, các thế hệ gia đình Huế đã hình thành và