Tản mạn về rong
(Ảnh: Internet)
Tôi cũng từng đi vớt rong, ở trên đồng vào thời điểm giáp Tết ấy mà. Tranh thủ trước khi xuống đồng, mạ con tôi (cùng nhiều người nữa) đi vớt rong. Mượn được chiếc tròng của ai đó rảnh rỗi, vậy là vội vàng chống ra đồng, tranh thủ làm vài chuyến. Người tôi bé tí, nước ngập đến quá lưng quần cũng hăng hái vớt. Ngán nhất là vào buổi chiều mưa lạnh lại gặp phải gió to, chiếc tròng cứ tròng trành, đung đưa làm khổ mạ con tôi. Bây giờ nghĩ lại sao lúc đó khỏe thế, cả buổi dầm mình trong nước lạnh lẽo mà sao không thấy ốm đau chi hết. Hết chuyến này sang chuyến khác, gặp buổi chiều thuận trời xuôi gió, hai mạ con cũng vớt được 4 – 5 tròng rong. Ớn nhất là rong vớt rồi hôm sau phải gánh lên rậy. Cả đống to đùng cũng chỉ hai mạ con lon xon, con trước, mạ sau gánh hết sạch trơn. Mọi thứ mạ đều tính toán kỹ càng hết cả, nào trồng khoai, trồng thuốc, “vại” cải, “vại” ngò, trồng bầu, trồng mướp… Đủ thứ rau màu trồng đều có thể bón bằng rong, một thứ phân xanh đặc biệt kỳ lạ. Rong vừa là chất hữu cơ tăng cường độ phì nhiêu, lại vừa là vật giữ độ ẩm tốt nhất cho đất đai.
Xưa nay tôi chỉ biết có rong và có ngờ đâu cái thế giới rong rêu kia nó phong phú kỳ lạ đến thế. Đủ cả các loại rong, nào là rong lục, rong lam, rong đỏ, rong nâu, rong từ, rong mái chèo, rong kim, rong đốt, rong đuôi chó, rong đuôi chồn… Có rong trên đồng cạn vào mùa mưa lụt, rong ở đầm phá, lại có cả rong tận ngoài biển khơi. Chỉ riêng ở vùng đầm Cầu Hai đã có tới 43 loài rong cả thảy. Hôm rồi về Phụng Chánh – Diêm Trường nghe kể chuyện lặn rong mà ngẩn tò te. Thì ra, ở đây có hẳn luôn một nghề kiếm sống bằng khai thác rong. Không phải loại rong nào cũng có thể dùng làm phân bón được mà phải là những loại rong mọc sâu dưới đáy, không pha trộn bùn, rêu, rạ, cỏ… Thế nên mới có cái nghề “lặn rong” vất vả mưu sinh để cung cấp mặt hàng này phục vụ cho nhu cầu chăn nuôi và trồng trọt. Một thời trên đầm Cầu Hai có cả hàng trăm đò “lặn” rong hoạt động đêm ngày. Nghe kể năm xưa, cũng nhờ đội quân đò nôốc “lặn” rong đó mà chỉ trong một đêm cả trung đoàn 101 đã được chuyển từ bên kia đầm Cầu Hai qua bên này đầm, để rồi tờ mờ sáng 27 /7/1952 đúng theo ý đồ chiến lược, cất vó luôn cả một binh đoàn Pháp ở trận Thanh Lam Bồ lịch sử.
Bây giờ về khu ba Phú Lộc vẫn thấy thấp thoảng trên đầm Cầu Hai bóng dáng những chiếc đò và ai đó “lặn” rong vào buổi chiều tà. Ngắm nhìn cảnh ấy, tự dưng lại nhớ tới cái cảm giác trơn truột, lấm láp mà thân quen khi ôm cả đống rong trong buổi chiều đông lạnh giá nơi cánh đồng quê hương. Rồi nghĩ cũng thấy lạ, ngày ấy xa rồi mà sao tôi cứ mãi hoài niệm về khoai sắn, rong rêu một thời kia.
(Theo Thừa Thiên Huế)